BS. Thân Trọng Thạch – BS. Lê Thái Thanh Khuê
AMH là gì?
AMH là tên viết tắt của Anti-Mullerian Hormone, là một loại được sản xuất bởi các tế bào hạt trong nang buồng trứng từ tuần thứ 36 của thai kỳ cho đến khi mãn kinh. Chỉ số AMH cho biết số nang noãn non đang phát triển và quần thể nang nguyên thuỷ hiện có trong buồng trứng của người phụ nữ. Chỉ số AMH cao nhất ở tuổi 25 – 30 và giảm dần theo thời gian. Trong thời kỳ bào thai, AMH đóng vai trò quan trọng với sự phát triển của cơ quan sinh dục ở thai nhi. Trong những tuần thai đầu tiên, thai nhi sẽ phát triển các cơ quan sinh sản, em bé sẽ có sẵn những gen quy định để trở thành nam (XY) hoặc nữ (XX).
Các nghiên cứu cho thấy việc xét nghiệm AMH có thể giúp bác sĩ đánh giá dự trữ còn lại của buồng trứng (số noãn còn ở buồng trứng) và diễn tiến của hiện tượng lão hóa buồng trứng. Từ đó, xét nghiệm này có thể áp dụng để chẩn đoán khả năng sinh sản của nữ giới và tiên lượng thời gian cần can thiệp điều trị để có con.
Hình 1 Xét nghiệm AMH giúp đánh giá dự trữ buồng trứng
Chỉ số AMH có ý nghĩa như thế nào?
Mức AMH có thể cung cấp số lượng noãn còn lại trên buồng trứng từ đó tiên đoán về khả năng sinh sản trong tương lai. Cụ thể như sau:
- AMH bình thường: Ở phụ nữ khỏe mạnh và dưới 38 tuổi, nồng độ AMH bình thường nằm trong khoảng từ 2,0 – 6,8ng/ml (14,28 – 48,55pmol/L).
- AMH cao: chỉ số AMH cao và quá cao (>10 ng/ml, thường gặp ở phụ nữ có buồng trứng đa nang), người có chỉ số AMH cao vẫn có khả năng mang thai tự nhiên tuy nhiên tỷ lệ này sẽ thấp hơn so với phụ nữ bình thường, trong một số trường hợp bệnh nhân cần kết hợp điều trị theo chỉ định của bác sĩ.
- AMH thấp: Mức AMH thấp (1,0-1,5 ng/ml) cho thấy khả năng dự trữ buồng trứng thấp, tuy nhiên vẫn có cơ hội mang thai.
- AMH cực thấp (dưới 0,5ng/ml) cho thấy còn rất ít trứng dự trữ
Hình 2 Ngưỡng AMH được xem là bình thường và thấp (Nguồn)
Những yếu tố nào có thể ảnh hưởng đến chỉ số AMH?
- Tuổi
Nồng độ AMH đạt đỉnh vào lúc 25 tuổi và giảm đều đặn theo tuổi, cho đến nồng độ dưới ngưỡng phát hiện vào lúc 50-51 tuổi, tương ứng với độ tuổi mãn kinh. Song song với sự giảm AMH, có sự sụt giảm của các nang noãn được chiêu mộ một cách tương ứng kể từ sau 25 tuổi. Tuy nhiên, trước tuổi 25, mối quan hệ giữa AMH và dự trữ buồng trứng có phần phức tạp hơn. Sự chiêu mộ nang noãn đạt đỉnh ở tuổi 15 nhưng đỉnh AMH lại xảy ra ở tuổi 25. Chính vì vậy, cần thận trọng khi sử dụng AMH để đánh giá dự trữ buồng trứng của một phụ nữ trước 25 tuổi. Ngoài ra, ở cùng một độ tuổi, nồng độ AMH cũng rất khác nhau giữa những người phụ nữ khác nhau.
- Chủng tộc
Ở cùng một độ tuổi, phụ nữ người Hoa, châu Phi da đen, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Nam Á có nồng độ AMH thấp hơn so với người da trắng (Bleil ME, 2014). Sự khác biệt này có thể do sự khác nhau về sinh học, cách thức chiêu mộ nang noãn hoặc cách chế tiết AMH của buồng trứng.
- Béo phì, hút thuốc lá, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)
- Béo phì không làm ảnh hưởng đến nồng độ AMH.
- Hút thuốc lá, có thai, sử dụng thuốc ngừa thai ở nhiều dạng khác nhau lại làm giảm nồng độ AMH. Cơ chế được cho là do các yếu tố này làm giảm sự chế tiết gonadotropin nội sinh và thay đổi sự phát triển của các nang noãn có hốc.
- Phụ nữ có Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) có nồng độ AMH cao hơn 2-4 lần so với phụ nữ không có PCOS.
Xét nghiệm AMH nên thực hiện trên đối tượng nào?
- AMH giúp tiên lượng khả năng sinh sản trong tương lai
Một số nghiên cứu cho thấy chỉ số AMH có mối liên quan đến khả năng sinh sản. Chỉ số này sẽ giảm dần theo thời gian và tốc độ giảm sẽ khác nhau ở mỗi người. Việc xét nghiệm AMH nhiều lần theo thời gian có thể đánh giá được tiên lượng, khả năng và thời gian có thai sẽ thích hợp với phương án tự nhiên hay can thiệp hỗ trợ sinh sản.
- AMH giúp tiên lượng tuổi mãn kinh
Ở phụ nữ, xét nghiệm AMH được xem là xét nghiệm duy nhất có kết quả giảm dần và có sự liên quan đến quá trình lão hóa của buồng trứng. Phụ nữ bước vào tiền mãn kinh, mãn kinh, chỉ số AMH sẽ giảm dần cho đến khi không còn có thể đo bằng xét nghiệm. Với những trường hợp suy buồng trứng sớm, AMH sẽ giảm rất nhanh vì vậy chỉ số này rất quan trọng trong việc tiên lượng, chẩn đoán hiện tượng khởi phát mãn kinh ở người phụ nữ.
- Đánh giá và tiên lượng khả năng sinh sản sau điều trị ung thư
Một số nghiên cứu cho thấy, với những bệnh nhân điều trị ung thư chỉ số AMH có giảm sau khi điều trị, đồng thời có sự biến đổi chỉ số AMH giữa các phác đồ điều trị khác nhau. Các kết quả trên cũng mở ra khả năng ứng dụng của chỉ số AMH trong việc theo dõi, đánh giá và bảo tồn khả năng sinh sản của người phụ nữ trong khi điều trị các bệnh lý ác tính hoặc bệnh lý có tác động đến buồng trứng.
Xét nghiệm AMH có thể thể sử dụng như một dấu hiệu đáng tin cậy đánh giá tổn thương ở buồng trứng sau khi người bệnh trải qua phẫu thuật hoặc hóa, xạ trị. Mặc dù AMH chưa tiên lượng được chính xác khả năng sinh sản, tuy nhiên AMH có tiềm năng đánh giá tổn thương buồng trứng sau thủ thuật từ đó bác sĩ có thể tư vấn cho bệnh nhân về khả năng sinh sản trong tương lai cũng như kế hoạch điều trị sinh sản. Vì vậy chỉ số AMH hiện nay có thể được sử dụng trước và sau khi người bệnh có chỉ định phẫu thuật trên buồng trứng để có phương án dự phòng tốt nhất.
- Dự đoán đáp ứng buồng trứng khi thực hiện kích thích buồng trứng
Vì mối liên quan giữa AMH và số lượng các nang noãn tiền hốc và nang noãn có hốc nhỏ, cũng như quyết định ngưỡng đáp ứng của các nang noãn này với FSH như đã nêu ở trên mà người ta cho rằng AMH là yếu tố không thể thiếu để đánh giá đáp ứng của buồng trứng khi kích thích buồng trứng. Các nghiên cứu cho thấy rằng xét nghiệm AMH có giá trị dự đoán tốt nhất đối với đáp ứng buồng trứng kém hoặc nhiều, kế tiếp là chỉ số AFC (đếm số lượng nang noãn) và kém nhất là xét nghiệm FSH3. Bên cạnh đó, đối với phụ nữ <35 tuổi, chỉ số AMH >5 ng/mL làm tăng chất lượng của phôi nang khi thực hiện hỗ trợ sinh sản.
Tóm lại,
Sự ra đời của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã giúp nhiều cặp vợ chồng có thể có con mặc dù mắc phải các bệnh lý phức tạp ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh sản. Tuy nhiên, sẽ hiệu quả hơn rất nhiều khi chúng ta có thêm những yếu tố chỉ điểm trong trọng như AMH để có thể tiên lượng được trường hợp này có thể có thai bình thường không hay cần được tư vấn điều trị càng sớm càng tốt, điều này cũng giúp giảm chi phí điều trị cũng như giảm căng thẳng cho bệnh nhân.